Monday, January 18, 2016

KINH A DI ĐÀ

KINH A DI ĐÀ (Nghĩa)

(Dịch nghĩa: Thích Trí Tịnh)


CÚNG HƯƠNG

(Thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương cầu nguyện )

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cúng pháp giới chúng sinh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ Giác
( Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện )

TÁN THÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phất bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. ( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lại hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Am Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lạy )
Chúng con xin chí thành Sám Hối
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp
Đều vì vô thỉ tham sân si
Bởi thân miệng ý phát sanh ra
Hết thảy từ nay xin sám hối

TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát. ( 3 lần )

CHÚ ĐẠI BI

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô A rị da, Bà lô yết đế thước bát ra da, Bồ đề tát đoả bà da, Ma ha tát đoả bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, Tát bàn ra phạt duệ, Số đát na đát toả.
Nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da, Bà lô yết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, Hê rị ma ha bán đa sa mế, Tát bà a tha đậu du bằng, A thệ dựng, Tát bà tát đa na ma bà già, Ma phạt đạt đậu, Đát điệt tha. Án a bà lô hê, Lô ca đế, Ca ra đế, Di hê rị, Ma ha bồ đề tát đoả, Tát bà tát bà, Ma ra ma ra, Ma hê ma hê rị đà dựng, Cu lô cu lô yết mông, Độ lô độ lô phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, Đà ra đà ra, Địa rị ni, Thất Phật ra da, Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, Mục đế lệ, Y hê y hê, Thất na thất na, A ra sâm Phật ra xá lợi, Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô lô hô lô ma ra, Hô lô hô lô hê rị, Ta ra ta ra, Tất rị tất rị, Tô rô tô rô, Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, Na ra cẩn trì, Địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na, Ta bà ha. Tất đà dạ, Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, Ta bà ha. Tất đà du nghệ, Thất bàn ra dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì, Ta bà ha. Ma ra na ra, Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ, Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ, Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, Thước bàn ra dạ, Ta bà ha. ( 3 lần )
Án tất điện đô, Mạn đà ra, Bạt đà dạ, Ta bà ha.

NGHI THỨC TRÌ TỤNG

CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI

Án lam ( 7 lần )

CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP:

Án, sa phạ, bà phạ, truật đà sa phạ, đạt mạ sa phạ, bà phạt truật độ hám. (3 lần)

CHƠN NGÔN PHỎ CÚNG DƯỜNG:

Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. ( 3 lần )

BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN:

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo ( 3 lần )

Lạy đấn tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh A Di Đà
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực La5d.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần )

BÀI KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

( Hán dịch, nhà Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch )

1. KỲ VIÊN ĐẠI HỘI

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá- Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội. Điều là bậc Đại A La Hán mọi người điều quen biết, như là:

Trưởng lão Xá- Lợi- Phất, Đại Mục- Kiền- Liên, Đại Ca- Diếp, Ma- Ha Ca- Chiên- Diên, Ma- Ha Câu Hy- La, Ly- Bà- Đa, Châu- Lợi- Bàn- Đà- Già, Nan-Đà, A- Nan- Đà, La- Hầu- La, Kiều- Phạm- Ba- Đề, Tân Đầu- Lu- Phả- La- Đoạ, Ca- Lưu- Đà- Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc- Câu- La, A- Nâu- Lầu- Đà, những vị đại đệ tử như thế.
Và hàng Đại Bồ Tát, Văn- Thù- Sư- Lợi: Pháp- Vương- Tử, A- Dật- Đa Bồ Tát, Càn- Đà- Ha- Đề Bồ Tát, Thường- Thinh- Tấn Bồ Tát, cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích- Đề- Hoàn- Nhơn..v..v… đại chúng cùng đến dự hội

2. Y BÁO CHÁNH BÁO

Bây gời Đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá- Lợi- Phất rằng: “ Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trogn thế giới đó có Đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

3. Y BÁO TRANG NGHIÊM

Xá Lợi Phất ! Cõi đó vì sao tên là cõi Cực Lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy châu báu, trong ao đầy dẫn nước đủ tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất.

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại rong cõi nước của Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáo trời rưới hoa trời mạn đà la.

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lài nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp là thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh- võ, Xá- lợi, Ca- lăng- tần- già, Cọng- mạng; nhữn giớng chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà nhã.

tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá- Lợi- Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?
Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá- Lợi- Phất! Cõi của Đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hoá làm ra đấy thôi.
Xá- Lợi- Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hoà chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá- Lợi- Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang ngiêm dương ấy.

4. CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG

Xá- Lợi- Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi- Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá- Lợi- Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá- Lợi- Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá- Lợi- Phất! Lại Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải ính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.

Xá- Lợi- Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá- Lợi- Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà hết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a – tăng – kỳ để nói thôi!
Xá- Lợi- Phất! Cùng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

Ví sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.

5.NHƠN HẠNH VÃNG SANH

Xá- Lợi- Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá- Lợi- Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Xá- Lợi- Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

6. SÁU PHƯƠNG PHẬT ĐỒNG KHUYÊN TIN

Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A- Súc- Bệ- Phật, Tu- Di- Tướng Phật, Đại- Tu- Di Phật, Tu- Di- Quang Phật, Diệu- Âm Phật; Hằng hà sa số những Đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các người phải nên tin kinh: xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng- Thọ Phật, Vô- Lượng- Tướng Phật, Vô- Lượng- Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại- Minh Phật, Bửu- Tướng Phật, Tịnh- Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm- Kiên- Phật, Tơi- Thắng- Âm- Phật, Nan- Trở Phật, Nhựt- Sanh Phật, Võng- Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm kharwpcõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư- Tử Phật, Danh- Văn Phật, Danh- Quang Phật, Đạt- Mạ Phật, Pháp- Tràng Phật, Trì- Pháp Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắpcõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm- Âm- Phật, Tú- Vương- Phật, Hương- Thượng- Phật, Hương- Quang- Phật, Đại- Diệm- Kiên Phật, Tạp- Sắc- Bửu- Hoa- Nghiêm- Thân Phật, Ta- La- Thọ- Vương Phật, Bửu- Hoa Đức Phật, Kiến- Nhứt- Thiết- Nghĩa Phật, Như- Tu- Di- Sơn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắpcõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá- Lợi- Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, ví sao tên là kinh: Nhứt- Thiết- Chư- Phật Sở Hộ Niệm?

Xá- Lợi- Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của Đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá- Lợi- Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá- Lợi- Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá- Lợi- Phất! cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

 

7. THUYẾT KINH RẤT KHÓ

Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tát cả thế gian khó tin này”.

Xá- Lợi- Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!
Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá- Lợi- Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A- Tu- La, v..v… nghe lời của Đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ Phật mà lui ra.
Phật Nói Kinh A Di Đà

A-Di- Đà Phật Tán:

Giáo chủ thế giới Tây phương là bậc Năng Nhơn của Tịnh độ; 48 nguyện độ chúng sanh; Lời phát nguyện thề rất sâu xa. Thượng Phẩm Thượng Sanh, Đồng đến BỬU LIÊN THÀNH.
1.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Lượng-Quang-Như Lai.
2.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Biên-Quang-Như Lai.
3.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Ngại -Quang-Như Lai.
4 .- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Đối-Quang-Như Lai.
5.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Diệm-Vương -Quang-Như Lai.
6.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Thanh-Tịnh-Quang-Như Lai.
7.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Hoan-Hỉ -Quang-Như Lai.
8.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Trí-Huệ-Quang-Như Lai.
9.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Nan-Tư -Quang-Như Lai.
10.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Bất-Đoạn-Quang-Như Lai.
11.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Vô-Xưng-Quang-Như Lai.
12.- Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-Lạc thế giới Di-Đà Hải-Hội, Siêu-Nhựt-Nguyệt-Quang-Như Lai.

BÁT-NHÃ-BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

Khi Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đệu không, nên qua hết thảy khổ ách.
Này ông Xá Lợi Tử, Sắc chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc. Thụ, Tưởng, Hành, tức cũng đều như thế.
Náy ông Xá Lợi Tử, Tướng “ không “ của mọi pháp ấy không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Cho nên trong “ chân không “ không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý; Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; Không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; Không có già chết, mà cũng không có cái hết già chết; Không có khổ, tập, diệt, đạo; Không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.

Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy, nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng:
“ Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đê, bồ đề tát bà ha”.
Bạt Nhứt-Thiết-Nghiệp-Chướng

Căn-Bổn Đắc Sanh Tịnh-Độ Đà La-Ni:

Nam mô A Di Đà bà dạ- Đa tha dà đa dạ -Đa địa dạ tha – A di rị đô bà tỳ – A di rị đa- Tất đam bà tỳ – A di rị đa – Tì ca lan đế – A di rị đa – Tì ca lan đa – Dà di nị – Dà dà na – Chỉ đa ca lệ – Ta bà ha ( 7 biến )

 

KỆ CA NGỢI PHẬT

Thân Phật Di Đà sắc vàng ròng,
Tướng tốt sáng ngời không gì sánh,
Baschf hào uyển chuyển năm Tu Di,
Mắc biếc lắng trong bốn bể lớn,
Vô số hoá Phật trong hào quang,
Chúng hoá Bồ tát cũng vô biên,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi , tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật

Nam Mô A Di Đà Phật ( 1 chuỗi )

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát ( 3 lần )

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 3 lần )

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ( 3 lần )

SÁM DI ĐÀ

Muốn đi có một đường nầy,
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra,
Vậy khuyên phải niệm Di-Đà,
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.
Hay trừ tám vàn trần lao,
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua,
Di-Đà xưa cũng làm vua,
Bỏ ngối bỏ nước vô chùa mà tu,
Xeta ra từ kiếp đã lâu,
Hiệu là Pháp-Tạng-Tỳ-kheo đó mà.
Trong khi ngài mới xuất gia,
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.
Nguyện nào cũng lắm oai thần,
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh,
Vì thương thế giới bất bình,
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi,
Thầy là Bảo-Tạng Như-Lai,
Bạn là Bảo-Hải tức Ngài Thích-Ca
Thích-Ca nguyện độ Ta-bà,
Di-Đà nguyện mở cửa nhà Lạc-bang,
Mở ao chín phẩm sen vàng,
Xây thành ba bảo đồ đàn thất trân.
Lưu ly quả đất sáng ngần,
Lầu châu gác ngọc mười phần trang nghiêm.
Hoa trời rưới cả ngày đêm,
Có cây rất báu có chim rất kỳ,
Lạ lùng cái cảnh Phương Tây,
Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.
Phong quang vui vẻ bốn mùa,
Nước reo Pháp Phật gió khua nhạc trời.
Di Đà có thệ một lời,
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh,
Mười phương ai phát lòng thành,
Nhất tâm mà niệm hòng danh của Ngài.
Hằng ngày trong lúc hôm mai,
Niệm từ mười tiếng đến rày ba trăm,
Khi đi, khi đứng, khi nằm,
Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.
Nguyện sanh về cõi Bảo Liên,
Là nơi Cực Lạc ở miền Tây phương,
Đến khi thọ mạng vô thường,
Tì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền,
Biết bao phước đức nhơn duyên, Đã về Cực-Lạc còn phiền não chi,
Sự vui trời cũng chẳng bì,
Đêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi,
Sống lâu kiếp kiếp đời đời,
Không già không chết không dời đi đâu.
Nguyện đến lúc con sắp lâm chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại
Tận mắt thấy Đức A Di Đà
Liền được vãng sanh về Cực Lạc
Phật kia, chúng hội đều thanh tịnh
Con liền từ thẳng hoa sen sanh
Thấy rõ Đức Phật Vô Lượng quang
Hiền tiền trao con “ Bồ đề ký “
Được Đức Như Lai thọ ký xong
Con hoá vô số trăm ức thân
Sức trí rộng lớn khắp mười phương
Lợi ích tất cả cõi chúng sanh

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức hạnh hơn hết
Phước đức rất nhiều cùng hồi hướng
Nguyện pháp giới rộng lớn cùng chúng sanh
Đều sanh sang nước Phật A Di Đà
Nguyện diệt ba chướng cùng phiền não
Nguyện được trí huệ trong sáng nhất
Tất cả tội chướng đều tiêu hết
đời đời thường làm đạo Bồ Tát
Nguyện sanh về Tây phương nước Tịnh
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật được vô sanh
Bậc Bồ Tát là bạn bè không thoái lui
Nguyện đem công đức nầy,
Một lòng phổ biến cho tất cả
Con và tất cả chúng sanh,
Đều được thành Phật đạo cả.

LỄ TAM QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo Đạo cả, phát lòng vô thượng. ( 1 lạy )
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh tạng, trí huệ như biển. ( 1 lạy )
Tự quy y tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. ( 1 lạy )
(đứng thẳng chắp tay đọc )

HOÀ NAM THÁNH CHÚNG

( xá 1 xá rồi đọc tiếp )

Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

( xá 3 xá rồi lui ra )

THÍCH NGHĨA A DI ĐÀ KINH

Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật A Di Đà.
Triều-Tấn ( Tàu ), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là tần nên gọi là Diệu Tần. Thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

Ông Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vương của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luông rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá để thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải cỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại-A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cần bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lượng nói số đó.

A-Dật-Đa là tên của đức Phật Di-Lặc Bồ Tát. Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ Tát – Thích-Đế-Hoàng-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
Ý báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây ý báo là nước Cực Lạc. Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim, thú ..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..
Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ.. Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.
KHỔ Ở CÕI TA BÀ

Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét.. v.. v…
Hoại khổ: Vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.
Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát khổ:
Sanh khổ: Ở bào thai tối tâm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối lùn, mặt nhăn đầu bạc….
Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhói xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
Tử khổ: ngộp mệt lộn tròng, méo miệng, chuyển xương gân rút..
Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang hoạ, cầu thọ mà yểu vong…
Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ..
Ngũ ấm xứ thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác..

VUI Ở CỰC LẠC

Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiên.
Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không tiêu diệt.
Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động.
Bát lạc:
Sanh lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hoá sanh..
Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu.
Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu.
Vô tử lạc: thọ mạng vô thường, trường sanh bất diệt.
Toại nguyện lạc: tuỳ ý quả toại, y thực tự nhiên.
Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời…
Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý….
Vô ngũ ăm sanh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời… Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta Bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.
Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng.. tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. – Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàn, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm, hoà hưỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khoẻ thân tâm.
Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giơi. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi,vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp, và Tăng. Đị kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niêmj loạn tưởng cùng biến lười ngủ nghĩ, va (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hoá dễ dàng.
Tinh, tấn, niệm, định, huệ: ngưới tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường hạnh đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn ( cộ rễ ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực ( sức mạnh ). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi ( 7 đức giác ngộ ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Ở trong cõi Ta Bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của Đức A Di Đà biến hoá ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A Di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Đà.

A-Bệ-Bạt-Trí ( Phạn âm ) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thanh Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát ( vì Bồ tát chỉ còng là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy ). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhứt tâm bất loạn thời là thành tựu căn phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát… phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc. – Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mải mai thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.

Người tu tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín Phật, Hạnh ( chuyên tâm niệm Phật ) và Nguyện ( thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc ). Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cầm cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phườn đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng, Sông Hằng là con sông lớn ở bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lười dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống là nữa rộng dài trùm khắp cả thế giới?

Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giói là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [ 1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].

Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi này có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

Ngũ trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục dơ. (2) Kiến trược: Những điều mê chấp, tà kiến, điên đảo. (3) Phiền não trược: Các tâm niêm bát thiện như tham, sân, si, mạn bất tín. (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên cây tánh cách nhiễu nãi, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).

No comments:

Post a Comment