Monday, January 18, 2016

Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp


p



Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm

Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp

Ấn Đà-La-Ni

Phật Lịch 2541

Như thật tôi nghe, một thời đức Phật ở tại nước Ma-Già-Đà trong vườn vô cấu ao bửu quang-minh, cùng đại Bồ Tát và đại Thanh Văn, Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thác Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-La, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, người cùng phi nhân.v.v. vô lượng trăm ngàn trước sau đoanh vây nhiểu.
Lúc bấy giờ trong chúng có đại Bà-la-môn tên là Vô Cấu Diệu Quang, đa văn thông huệ, mọi người ưa mến,  thường tu hành thập thiện, quý kính tam bảo, tâm lành ân trọng, trí huệ vi tế, thường hằng muốn cho hết thảy chúng sanh được viên mãn lợi lành, giàu lớn phong nhiêu.
Bấy giờ Bà-la-môn Vô Cấu Diệu Quang từ tòa đứng dậy, qua đến chổ Phật, nhiểu Phật bảy vòng, đem các hương hoa phụng dâng Thế Tôn Diệu y vô giá, chuỗi ngọc anh-lạc, trân châu quý giá dâng lên đức Phật, đảnh lễ hai chân rồi lui ngồi một bên mà thưa thỉnh rằng: " Cúi mong Đức Thế-Tôn và cùng các đại chúng, ngày mai buổi sáng, đến vào nhà con, thọ sự cúng dường cửa con."
Lúc bấy giờ Đức Thế-Tôn lặng thinh hứa khả và Vô Cấu Diệu Quang Bà-la-môn biết Phật thọ thỉnh liền trở về nhà, ngay trong đêm ấy rộng bày thi thiết trăm vị ăn uống cao lương mỹ vị, lau quét điện đường, treo các tràng phan, bảo cái, đến sáng xong rồi cùng các quyến thuộc cầm các hương hoa và các âm nhạc đến chổ Đức Như-Lai mà bạch Phật rằng :
" Đã đến giờ cúi mong Ngài giáng lâm." Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nhỏ nhẹ dặn dò, an ủi Bà-la-môn Vô Cấu Diệu Quang kia và bảo khắp đại chúng và tuyên bố rằng :
"Các ông đều nên qua đến nhà Bà-la-môn kia để nhiếp thọ sự cúng dường vì muốn cho Bà-la-môn này được đại lợi ích."
Nói thời ấy, Đức Thế-Tôn liền từ tòa đứng dậy, vừa đứng khỏi tòa, từ thân Phật tuôn ra các thứ  hào-quang sáng, các sắc mầu nhiệm xen nhau chiếu soi làm kinh-động mười phương và kỉnh giác hết thảy nhiên hậu mới đi. Lúc ấy Bà-la-môn đem lòng thành kính, cầm các hương hoa mầu nhiệm, cùng các quyến thuộc và thiên long bát bộ, Thích Phạm, Tứ Vương đi trước sửa sang đường sá phụng dẫn Như-Lai.
Bấy giờ Đức Thế-Tôn, trước đường không xa, đến trong một khu vườn gọi là Phong tai. Trong vườn kia, có một cổ tháp xưa hư nát, rơi rớt, gai gốc mọc đầy, cỏ cây che lấp, cửa nẻo gạch ngòi vùi lấp đường như gò đất. Bấy giờ Đức Thế-Tôn dòi gót, bước qua chỗ tháp. Trên tháp phóng đại hào quang chiếu sáng rực rỡ, nơi trong đất phát ra tiếng khen ngợi rằng : "Lành thay, lành thay, Thích Ca Mâu Ni ngày nay đã làm cực thiện cảnh giới lại nữa Bà la-môn : ông nơi lành". Bấi giờ Đức Thế-Tôn lể tháp mục kia, nhiểu quang ba vòng, cởi y trên thân phủ lên tháp ấy, đôi mắt rơi lệ, khóc rồi ngài mỉn cười. Đương khi ấy mười phương chư Phật xem thấy cũng đều rơi lệ và phóng hào quang đến chiếu nơi tháp ấy. Thấy thế Đại chúng kinh ngạc đổi sắc, cùng nhau cầu Phật giải điều nghi ấy. Bấy giờ Kim Cang Thủ Bồ Tát cũng đều rơi lệ oai quang hừng hẩy như lủa đỏ, cầm chày múa quanh, qua đến chỗ Phật, bạch Đức Thế-Tôn rằng : "Nhơn duyên này thế nào mà hiện ánh tướng hào quang ấy? Cớ chi Đức Như Lai rơi lệ như thế? Mười phương chư Phật cũng lại có điềm hào quang tướng sáng hiện tiền. Cúi mong Đức Như-Lai đối với đại chúng này mà giải nghi cho." Bấy giờ Đức Phật dạy:
"Này Kim Cang Thủ: Đại toàn thân xá lợi của Như Lai tích chứa trong bảo tháp này. Tất cả Như Lai vô lượng cu chi Tâm Đà-La-Ni mật ấn pháp yếu nay ở tại trong ấy. Này Kim Cang Thủ : vì có pháp yếu này ở tại trong đó cho nên tháp này biến làm trùng điệp câu chi trăm nghìn thân Như Lai nhóm từ trong đó. Cho đến tám vạn bốn nghìn pháp uẩn cũng tại trong đó, ngàn vạn cu chi Như Lai đảnh tướng cũng ở trong đó trùng điệp như hạt mè nối nhau. Do việc mầu nhiệm ấy cho nên chổ tháp này có đại thần nghiệm thù thắng oai đức, hay mản tác cả vui mừng lành tốt trong thế gian."
Bấy giờ đại chúng nghe Phật ngài nói đều xa lìa được trần cấu, dứt các phiền nảo, đắc pháp nhản tịnh bao nhiêu chúng bấy giờ được lợi ích khác nhau. Có người chứng được tu đà hoàn quả, A-na-hàm, A la hớn quả, có kẻ chứng được Bích-chi Phật, Bồ Tát, A-bệ-bạc-trí ( Bồ-tát bất thối ) Tác-bà nhả trí ( Nhất thiết trí ) rồi lại có vị chứng được Sơ-địa Nhị-địa cho đến Thập-địa, hoặc có vị đầy đủ sáu Ba-la-mật. Bà-la-môn kia cũng lìa được trần cấu và chứng ngủ thần thông. Bấy giờ Kim Cang Thủ thấy việc đặc biệt ít có này bạch đức Phật rằng: "Thật mầu nhiệm thay, thật là lạ thay! Chỉ nghe việc này mà còn chứng hoạch công đức thù thắng như thế, huống nữa nghe được thâm lý, chí tâm khởi lòng tin thì đắc biết bao là công đức!". Phật dạy: "Này ông Kim Cang Thủ, ông hãy lắng nghe:
Đời sau nếu có kẻ trai lành người gái tín và bốn bộ đệ tử của ta: Phát tâm chép viết một cuốn kinh này, tức là đồng bằng chép viết chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi hết thảy kinh điển của Như Lai đã nói và cũng được tất cả các đức Như Lai gia trì hộ niệm thương yêu như đôi tròng mắt, cũng như mẹ hiền thương con trẻ. Nếu người đọc tụng một quyển kinh này liền bằng đọc tụng quá khứ, hiện tại, vị lai kinh diển của chư Phật. Do như thế đó nên chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi hết thảy Như Lai ứng chánh đẳng giác kín khắp không chổ hở cũng như hạt mè trùng điệp đến đây. Ngày đêm hiện thân gia trì cho người tu hành. Vô số hằng hà sa hết thảy các đức Như Lai như thế trước tụ tập chưa đi, số sau trùng điệp mà đến, phút chốc đi rồi trở lại, thí như cát nhỏ ở tại dòng nước xoáy không lúc nào dừng nghỉ. Nếu có người lấy hương hoa, tràng hoa hay y phục mầu nhiệm trang nghiêm đầy đủ để cúng dường kinh này, cũng như trước mười phương chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi Như Lai kia mà cúng dường hương hoa của chư thiên. Y phục trang nghiêm đầy đủ bảy báu chứa đầy núi tu di đem cúng dường. Phước lành hai bên đều giống nhau không khác."

Lúc bấy giờ, thiên long bát bộ, người cùng phi nhơn nghe lời nói ấy rồi, mỗi mỗi đều ôm lòng hy hửu lạ thay cùng nhau nói lên rằng: "Lạ thay oai đức đống đất củ này thần lực của Như Lai đã gia trì cho nên có thần biến." Kim Cang Thủ lại bạch Đức Phật rằng: "Kính thưa Thế-Tôn, vì nhân duyên gì mà thất bảo tháp lại hiện làm đống đất?"
Phậy dạy: "Này Kim Cang Thủ! Đây không phải là đống đất mà là thù diệu đại bảo tháp vậy. Do nghiệp quả của các chúng sanh kém thiếu cho nên ẩn che mà không hiện. Do tháp ẩn chư toàn thân Như Lai không thể hủy hoại, chẳng lẻ Kim Cang tạng thân của Như Lai mà có thể hoại sao? Sau khi ta diệt độ, đời mạc pháp gặp thời bức bách, nếu có chúng sanh nào tập hành phí pháp đáng đọa địa ngục, không tin tam bão, không trồng căn lành, vì nhơn duyên đó nên Phật pháp phải ẩn mất. Tuy thế mà tháp cũng vẫn bền chắc không hoại diệt. Tất cả thần lư6c của Như Lai đã gia trì, chúng sanh vô trí bị hoặc chướng che lấp, luống uổng trân bảo mà không biết xử dụng. Vì việc ấy cho nên ta rơi lệ, các Đức Như Lai kia cũng đều rơi lệ.: Lại nữa Phật dạy: "Này Kim Cang Thủ! Nếu có chúng sanh chép viết kinh này để trong tháp, tháp đó tức là Kim Cang Tạng suất đổ ba của hết thảy Như Lai, cũng là Tâm-Đà-La-Ni bí mật gia trì, suất đổ ba của hết thảy Như Lai tức là chín mươi chín trăm ngàn vạn cu chi Như Lai. Suất đổ ba cũng là Phật đảnh, Phật nhản tức là hết thảy Như Lai đại thần lực gia hộ.
Nếu trong Phật tượng, trong tháp nhiều từng mà an trí kinh này, tức như tượng kia do bảy báu mà thành linh nghiệm ứng tâm không nguyện gì mà không viên mản. Với tháp báu ấy dùng tán cái lọng tàn, hoặc màng trướng, hoặc luân đường, hoặc mâm đồng cúng dường, hoặc chuông, hoặc linh trang sức tùy sức bày biện bốn bên, hoặc thổ hoặc mộc, hoặc đá hoặc gạch do oai lực của kinh tự thành thất bảo. Hết thảy Như Lai đối với kinh điển này thêm phần oai lực cho tháp kia.
Lấy lời thành thật gia trì không ngừng nghỉ. Nếu có hữu tình đối với tháp này dùng một cây hương, một cành hoa lể bái, cúng dường thì tám chục ức kiếp trọng tội thảy đều tiêu diệy, sống khỏi tai ương, chết sanh cỏi Phật. Nếu cò hữu tình đáng đọa Địa-ngục A-tỳ; nếu đối với tháp này một phen lể bái, một lần hửu nhiểu cửa địa ngục đóng bít, đường Bồ-đề mở thông. Nơi chổ tháp và hình tượng thần lực của tất cả Như Lai đã gia hộ. Chổ ấy không bị gió bảo, chớp nhán sấm sét làm hại, không bị độc xà, rắn rít bồ cạp, độc trùng, độc thú làm tổn thương, không bị sư tử, voi điên, cọp beo, dã cang, ong nhện làm thương hại, cũng không bị dược xoa, la sát, bộ đa ma, tỳ xá gia, ly mỵ, vọng lượng điên cuồng lo sợ, cũng không bị tất cả bịnh lạnh nóng, bịnh ghẻ lở, ghẻ ung thư, ghẻ phỏng, ghẻ hờm, lác hủi làm nhiểu bịnh. Nếu có người tạm thấy tháp này thì có thễ trừ các tai nạn. Chổ ấy cũng không có người ngựa, lục súc, đồng tử, đồng nữ, các hoạn dịch bịnh, không bị hoạch tử yểu vong, không bị trộm cướp oán thù xâm hại, cũng không bị lo buồn đói khát thiếu thốn, ếm mị trù rủa. Không thể rình tìm hảm hại. Tứ đại Thiên vương cùng các quyến thuộc ngày đêm hộ vệ. Hai mươi tám bộ đại dược xoa tướng, Nhựt nguyệt ngủ tinh, trang vân tuệ tinh ngày đêm hộ trì. Tất cả long vương cho thêm tinh khí, thuận thời mưa xuống, tất cả các chư thiên cùng đao lợi thiên ba thời giáng đến để mà cúng dường. Tất cả chư thiên ba thời vân tấp, ca ngâm triều nhiểu lể tạ chiêm ngưởng. Thích đề hoàn nhơn cùng các thiên nữ ngày đêm ba thời giáng xuống cùng dường. Chổ kia tức là hết thảy Như Lai hộ niệm gia trì. Vì trong tháp dể kinh này nên được như thế. Nếu có người làm tháp lấy đất đà, cây, vàng bạc, đồng chì, chép thần chú nầy để trong ấy, vừa an trí rồi tháp kia tức thành bảy báu, trên dưới thềm bực lộ bày dù lọng, chuông linh, luân đường thuần là bảy báu. Tháp kia là hình tướng bốn phương Như Lai, do pháp yếu đó nên hết thảy Như Lai kiên trụ hộ trì ngày đêm không rời. Tháp bảy báu kia là Diệu Bảo Tàng toàn thân xá lợi. Vi Oai lực của thần chú vọt cao, cao đến cung A-Ca-Ni trà thiên mà trong chổ tháp đứng trơ trọi. Tất cả chư thiên ngày đêm chiêm ngưởng thủ hộ cúng dường. Kim Cang Thủ thưa rằng: "Vì nhơn duyên gì mà tháp này thú thắng công đức như thế?" Phật dạy: "Phải biết là nhờ thần lực bảo kiếp ấn Đà-La-Ni này" Kim Cang Thủ thưa rằng: "Cúi mong Đức Như Lai thương xót chúng con nói Đa-La-Ni ấy."
Phật dạy: "Hãy lắng nghe suy nghĩ, chớ nên quên làng! Hiện tại vị lai hết thày Như Lai quang nghi phân thân qua khứ chư Phật toàn thân xá lợi đều ở tại Bảo Kiếp ấn Đà-La-Ni, là chổ ba thân của các đức Như Lai cũng ở tại trong ấy."
Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói Đà-La-Ni rằng:
Na Ma Tác Đát Lị Dã, Địa Vĩ Ca Nẩm Tát Bà Đát Tha Nghiệt Đa Nẩm Úm Bộ Vĩ Bà Phạ Na Phạ Lị, Phạ Dã Lê, Phạ Dã Trai, Tô Rô Tô Rô Đà Ra Đà Ra Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa, Đà Đổ Đà Lê Bát Na Mẩm Bà Phạ Đế Nhạ Dã Phạ Lê. Mẩu Đát Lê Tát Ma Ra Đát Tha Nghiệt Đa. Đạt Ma Chước Ca Ra Bát La Mật Lật Đa. Na Phạ Nhật La Mạo Địa Mản Noa, Lăng Ca Ra, Lăng Hật Rị Đế Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Địa Sắc Sỉ Đế. Mạo Đà Giả, Mạo Đà Giả, Mậu Địa Mâu Địa, Một Đình Giả Một Đình Giả. Sám Mạo Đà Nể Sám Mạo Đà Giả, Giả Lả Giả Lả. Giả Nại Đô Tát Phạ Phạ Ra Nỏa Nể, Tát Phạ Bá Ba Vĩ Nghiệt Đế. Hô Rô, Hộ Rô Tát Phạ Thú Ca Nhị Nghiệt Đế. Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa. Hất Rị Ra, Tam Bà Ra, Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa. Ngu Hế Giả Đà Ra ni Mẩu Niết Lê, Ra Một Duệ, Tô Một Đệ, Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Hật Phạ Hạ. Tô Bát La Để Sắc Sỉ Đa Tát Đổ Bế Đát Tha Nghiệt Đa Địa Sắc Sỉ Đế. Hộ Rô Hộ Rô Hồng Hồng Ta Phạ Ha.
Úm Tát Phạ, Đát Tha Nghiệt Đa, Ổ Sắc Xỉ Sa Đà Đổ Mẩu Nải Ra, Ni Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đơn Ta Đà Đổ Vỉ Bộ, Sử Đa Địa Sắc Sỉ Đế Hồng Hồng Ta Phạ Ha. ( Tụng 7 hoặc 21 lần )
Lúc bấy giờ, Phật nói thần chú ấy rồi, chư Phật Như Lai, từ trong đống đất phát ra tiếng khen rằng: "Lành thay ! Lành thay ! Thích Ca Thế Tôn, vì lợi ích chúng sanh không nơi nương tựa mà xuất thế trong đời ác trược để diễn nói pháp sâu mầu, pháp yếu như thế cửu trụ ở thế gian, nhiều lợi ích rộng lớn, an ổn khoái lạc."
Bấy giờ Phật dạy Kim Cang Thủ rằng: "Hãy lắng nghe pháp yếu như thế, thần lực vô cùng, lợi ích vô biên, thí như trên cây có treo ngọc Như ý Bảo châu thường mưa tất cả trân bảo, mãn tất cả mong cầu. Ta nay chỉ lược một phần trong vạn phần, ông nay nên nhờ trì vì lợi ích hết thảy. Nếu có người ác chết đọa địa ngục, thọ khổ vô gián, không có ngày ra khỏi, nếu có con cháu của người ấy xưng tên của vong nhơn, tụng thần chú ở tren vừa mản bảy biến, thì ở địa ngục nước đồng sôi, hòn sắc nóng bổng nhiên biến thành ao nước mát. Có tám thứ công đức, liền sanh hoa sen đỡ chân người ấy, tàng báu che đầu. Cửa địa ngục phá nát, đạo bồ đề khai mở, hoa sen kia bay thẳng về thế giới Cực Lạc, Nhứt thiết chủng trí tự nhiên hiện phát, vui sướng vô cùng, được ngôi vị bổ xứ.
Lại có chúng sanh tội báo sâu nặng trăm bệnh chiêu nhóm đến thân, tâm thần đau khổ bức bách. Tụng thần chú này hai mươi mốt biến, trăm bệnh vạn nảo một thời tiêu diệt, thọ mạng diên trường phước đức vô lậu.
Nếu có người vì nghiệp đời trước xan tham cho nên sanh trong nhà bần cùng áo không đủ che thân, cơm không đủ no miệng, ốm gầy xấu xí, mọi người ghét mắng. Người ấy xấu hổ vào núi bẻ những hoa thơm đặc biệt, hoặc mài cây mục để lấy hương thơm, qua đến tháp ( tháp để kinh này ) lể bái cúng dường, nhiểu quanh bảy vòng rơi lệ hối lổi. Do sức thần chú và oai Đức của tháp diệt được quả báo nghèo cùng, thoạt đến giàu sang bảy báu tuông như mưa không còn thiếu thốn. Lúc này chỉ nên cúng dường Phật pháp và bố thí cho kẻ nghèo cùng, nếu còn xan lẩn tích chứa thì tài bảo tử nhiên mất.
Nếu có người vì muốn trồng căn lành tùy phần tạp tháp hoặc bùn hoặc sành, tùy sức bày biện lớn như trái yêm ma cao bốn lớng tay, chép viết thần chú an để trong tháp kia.
Khi an để xong đem hương hoa dâng, lể bái cúng dường, nhờ chú lực kia và lòng tín thành từ trong tháp nhỏ xuất ra mùi đại hương thơm kia trùm che như mây trời, hào quang chu biến khắp pháp giới. Mùi thơm xông ngát, ánh sáng chiếu diệu, rộng lành Phật sự đã được công đức như trên đã nói.
Tóm lại mà nói, không có nguyện gì mà không viên mãn. Nếu có bốn chúng để tử, trai lành gái tín trong đời pháp, vì đạo vô thượng tận lực tạo tháp an trí thần chú, chổ được công đức nói không thể hết.
Nếu có người cầu phước đến chổ tháp kia đem một cành hoa thơm, một nén hương quí, lể bái cúng dường, nhiểu quanh hành đạo, do công đức ấy quan chức quyến cao không cầu mà tự đến, sống lâu giàu có không mong mà tự tăng, oan gia trộm cướp không đánh mà tự chạy, oán niệm trù rủa không ếm mà trở về gốc. Dịch bệnh tà khí không lánh mà tự tránh, chổn hiền vợ thảo không cầu mà tự được, trai hiền, gái đẹp không cầu mà tự sanh. Tất cả sở nguyện tùy ý đẩy đủ.
Nếu những loài chim quạ, sẻ, tu hú, cú, bồ câu lâm li, chó sói, dã can, muổi mòng, kiến, ruồi chạm đến hình tháp, đạp cỏ trên nền tháp, liền phá được các hoặc chướng, giác ngộ vô minh, liền nhập vào cỏi Phật lảnh thọ pháp tài, huống là những người hoặc thấy hình tháp, hoặc nghe tiếng chuông khua, hoặc nghe danh tháp kia tội chướng thảy đều tiêu diệt, sở cầu như ý, hiện đòi an ổn, hậu sanh cực lạc, hoặc có người tùy sức lấy một hòn đá kê chổ tháp bi. nghiêng do công đức này, tăng phước diên trường thọ mạng, sau khi mạng chết thành chuyển luân vương.
Nếu sau khi ta diệt độ, bốn chúng để tử đối nơi trước tháp, muốn cứu giúp cỏi khổ thì nên cúng dường hương hoa, chí tâm phát nguyện tụng niệm thần chú, vân vân, cú cú phóng đại quang chiếu xuất đến tam đồ khổ sở đều tiêu, chúng sanh ấy thoát khổ, mần Phật liền sanh, tùy ý vãng sanh mười phương tịnh độ.
Nếu có người đi thẳng lên chót núi cao chí tâm tụng chú, tầm mắt phóng đến chổ nào như núi, hang, rừng, đồng suối, hồ sông, biển, trong ấy đã có những loài lông mao, lông vũ, vảy, vi sừng gạt đều tan hoặc chướng, giác ngộ vô minh hiển hiện ba món Phật tánh, rốt ráo an ở trong cỏi đại niết bàn.
Nếu cùng người trì chú qua đến đạo lộ hoặc gió thổi chạm y, hoặc chân đạp trên dấu chân người kia, hoặc chỉ thấy mặt, hoặc tạm lời nói nhau, hết thảy người được gặp như thế trọng tội đều tiêu diệt, tất địa viên mãn.
Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: "Nay kinh điển bí mật thần chú này giao pho cho các ông, hãy tôn trọng hộ trì lưu bố trong thế gian, khiến cho sự truyền thọ đối với chúng sanh không được đoạn tuyệt."
Kim Cang Thủ thưa rằng: "Con nay may mắn được Đức Thế-Tôn giao phó, cúi mong Đức Thế-Tôn, chúng con vì muốn báo thâm trọng ân đức của Đức Thế-Tôn, ngày đêm hộ trì lưu bố, tuyên dương hết thảy cho dân gian.
Nếu có chúng sanh viết chép thọ trì, nhớ niệm không quên mất, chúng con sẽ sai khiến Thích, Phạm, tứ vương, long thần bát bộ ngày đêm thủ hộ không tạm bỏ rơi người trì chú này."
Phật dạy: "Lành thay Kim Cang Thủ! ông vì tất cả chúng sanh ở đòi vị lai rộng làm đại lợi ích cho nên hộ trì pháp này khiến không đoạn dứt."
Bấy giờ Đức Thế-Tôn nói bảo kiếp ấn Đa-La-Ni, rộng làm Phật sự. Nhiên hậu qua nhà Bà-la-môn kia thọ các món cúng dường, khiến thòi bấy giờ nhơn thiên thâu hoạch được đại phước đức.
Bấy giờ đại chúng tỳ khưu, tỳ khưu ny, ưu bà tắc, ưu bà di, thiên long, dạ xoa, càn thác bà, a-tu-la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người cùng phi nhơn v.v.... đều đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.



Hồi Hướng

Tụng kinh công đức thù thắng hạnh
Xin đem hồi hướng khắp mười phương
Chúng sanh pháp giới cõi Ta Bà
Mau về cõi Phật Di Đà Tây Phương.

Phật Thuyết A Di Ðà Kinh - The Buddha Speaks of Amitabha Sutra


Phật Thuyết A Di Ðà Kinh
The Buddha Speaks of Amitabha Sutra

Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Translated by Tripitaka Master Kumarajiva of Yao Qin
English translation by the Buddhist Text Translation Society

Như thị ngã văn, nhất thời, Phật tại Xá Vệ quốc
Thus I have heard. At one time the Buddha dwelt at Sravasti, in the Jeta Grove,

Kỳ Thụ Cấp Cô Độc viên, Dữ đại Tỳ Kheo Tăng,
In the Garden of the Benefactor of Orphans and the Solitary, together with a gathering of great Bhiksus,

Thiên nhị bách ngũ thập nhân câu, giai thị đại A La Hán, chúng sở tri thức,
Twelve hundred fifty in all, all great Arhats whom the assembly knew and recognized.

Trưởng Lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La,
Elders Sariputra, Mahamaudgalyayana, Mahakasyapa, Mahakatyayana, Mahakausthila,

Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà,
Revata, Suddhipanthaka, Nanda, Ananda,

La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa,
Rahula, Gavampati, Pindola Bharadvaja,



Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, Như thị đẳng chư đại đệ tử,
Kalodayin, Mahakaphina, Vakkula, Aniruddha, and others such as these, all great disciples;

Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát,
Together with all the Bodhisattvas, Mahasattvas: Dharma Prince Manjusri, Ajita Bodhisattva,

Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát,
Gandhahastin Bodhisattva, Nityodyukta Bodhisattva, and others such as these, all great Bodhisattvas,

Cập Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, vô lượng chư thiên đại chúng câu,
And together with Sakra, chief among gods, and the numberless great multitudes from all the heavens.
Nhĩ thời Phật cáo Trưởng Lão Xá Lợi Phất,
At that time the Buddha told the elder Sariputra,

Tùng thị Tây Phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc,
“Passing from here through hundreds of thousands of millions of Buddhalands to the West, there is a world called Ultimate Bliss.
Kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết Pháp,
In this land a Buddha called Amitabha right now teaches the Dharma.”

Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc?
“Sariputra, for what reason is this land called Ultimate Bliss?”

Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đãn thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc,
“All living beings of this country endure none of the sufferings, but enjoy every bliss. Therefore it is called ‘Ultimate Bliss’.”

Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ,
“Moreover, Sariputra, this Land of Ultimate Bliss is everywhere surrounded by seven tiers of railings, seven layers of netting, and seven rows of trees,

Giai thị tứ bảo châu táp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc,
All formed from the four treasures and for this reason named ‘Ultimate Bliss’.”
Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì,
“Moreover, Sariputra, this Land of Ultimate Bliss has pools of the seven jewels,

Bát công đức thủy sung mãn kỳ trung, Trì để thuần dĩ kim sa bố địa,
Filled with the waters of eight meritorious virtues. The bottom of each pool is pure, spread over with golden sand.

Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành, Thượng hữu lầu các,
On the four sides are stairs of gold, silver, lapis lazuli, and crystal, above are raised pavilions


Diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, nhi nghiêm sức chi,
Adorned with gold, silver, lapis lazuli, crystal, mother of pearl, red pearls, and carnelian.”

Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang,
“In the pools are lotus as large as carriage wheels, green coloured of green light, yellow coloured of yellow light,

Xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết,
Red coloured of red light, white coloured of white light, subtly, wonderfully, fragrant and pure.”

Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm,
“Sariputra, the realization of the Land of Ultimate Bliss is thus meritoriously adorned
Hựu Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa,
“Moreover, Sariputra, in that Buddhaland there is always heavenly music and the ground is yellow gold.

Trú dạ lục thời, vũ thiên mạn đà la hoa, Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán,
In the six periods of the day and night a heavenly rain of mandarava flowers falls, and throughout the clear morning, each living being of that land,

Các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật,
With sacks full of the myriads of wonderful flowers, makes offerings to the hundreds of thousands of millions of Buddhas of the other directions.

Tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành,
At mealtime they return to their own country, and having eaten, they stroll around.”

Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm,
“Sariputra, the realization of the Land of Ultimate Bliss is thus meritoriously adorned.”
Phục thứ Xá Lợi Phất, bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu,
“Moreover Sariputra, in this country there are always rare and wonderful vari-coloured birds;

Bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng chi điểu,
White geese, peacocks, parrots, and egret, kalavinkas, and two-headed birds.

Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm,
In the six periods of the day and night the flocks of birds sing forth harmonious and elegant sounds;
Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng Pháp,
Their clear and joyful sounds proclaim the Five Roots, the Five Powers, the Seven Bodhi Shares, the Eight Sagely Way Shares, and Dharmas such as these.


Kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
When living beings of this land hear these sounds, they are altogether mindful of the Buddha, mindful of the Dharma, and mindful of the Sangha.”

Xá Lợi Phất, nhữ vật vị thử điểu, thật thị tội báo sở sanh, Sở dĩ giả hà,
“Sariputra, do not say that these birds are born as retribution for their karmic offences. For what reason?
Bỉ Phật quốc độ, vô tam ác đạo, Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh,

In this Buddhaland there are no three evil ways of rebirth. Sariputra, in this Buddhaland not even the names of the three evil ways exist,

Hà huống hữu thật, Thị chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật, dục linh Pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác.
How much the less their actuality! Desiring that the Dharma-sound be widely proclaimed, Amitabha Buddha by transformation made this multitude of birds.”

Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thụ, cập bảo la võng,
“Sariputra, in that Buddhaland when the soft wind blows, the rows of jeweled trees and jeweled nets

Xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác.
Give forth subtle and wonderful sounds, like one hundred thousand kinds of music played at the same time.
Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm,
All those who hear these sounds naturally bring forth in their hearts mindfulness of the Buddha, mindfulness of the Dharma, and mindfulness of the Sangha.”

Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm,
“Sariputra, the realization of the Land of Ultimate Bliss is thus meritoriously adorned.”
Xá Lợi Phất, ư nhữ ý vân hà?
“Sariputra, what do you think?

Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà, Xá Lợi Phất, bỉ Phật quang minh vô lượng,
Why is this Buddha called Amitabha? Sariputra, the brilliance of that Buddha’s light is measureless,

Chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di Đà.
Illumining the lands of the ten directions everywhere without obstruction, for this reason he is called Amitabha.”
Hựu Xá Lợi Phất, bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp,
“Moreover, Sariputra, the life of that Buddha and that of his people extends for measureless, limitless asamkhyeya kalpas;

Cố danh A Di Đà, Xá Lợi Phất, A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.
For this reason he is called Amitayus. And Sariputra, since Amitabha realized Buddhahood ten kalpas have passed.”
Hựu Xá Lợi Phất, bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán,
“Moreover, Sariputra, that Buddha has measureless, limitless ‘Sound-hearer’ disciples, all Arhats,

Phi thị toán số chi sở năng tri, Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị.
Their number incalculable; thus also is the assembly of Bodhisattvas.”

Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
“Sariputra, the realization of the Land of Ultimate Bliss is thus meritoriously adorned.”

Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí.
“Moreover, Sariputra, those living beings born in the land of the Ultimate Bliss are all Avaivartika.

Kỳ trung đa hữu nhất sanh bổ xứ, Kỳ số thậm đa,
Among them are many who in this very life will dwell in Buddhahood. Their number is extremely many;

Phi thị toán số sở năng tri chi, đãn khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết,
It is incalculable and only in measureless, limitless Asamkhyeya kalpas could it be spoken.”

Xá Lợi Phất, chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc,
“Sariputra, those living beings who hear should vow, ‘I wish to be born in that country.’

Sở dĩ giả hà, Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ,
And why? Those who thus attain are all superior and good people, all gathered together in one place.

Xá Lợi Phất, bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Sariputra, one cannot have few good roots, blessings, virtues, and causal connections to attain birth in that land.”

Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu,
“Sariputra, if there is a good man or a good woman who hears spoken ‘Amitabha’ and holds the name,

Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn,
Whether for one day, two days, three days, four days, five days, six days, as long as seven days, with one heart unconfused,
Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật, dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền,
When this person approaches the end of life, before him will appear Amitabha and all the assembly of Holy Ones.

Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ.
When the end comes, his heart is without inversion. In Amitabha’s Land of Ultimate Bliss he will attain rebirth.”

Xá Lợi Phất, ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
“Sariputra, because I see this benefit, I speak these words.

Nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
If living beings hear this spoken they should make the vow, ‘I will be born in that land’.”
Xá Lợi Phất, như ngã kim giả, tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghì công đức chi lợi,
“Sariputra, as I now praise the inconceivable benefit from the merit and virtue of Amitabha,

Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật,
Thus in the East are also Aksobya Buddha, Sumeru Appearance Buddha, Great Sumeru Buddha, Sumeru Light Buddha, Wonderful Sound Buddha,

Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,

Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
‘All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.’”

Xá Lợi Phất, Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang phật,
“Sariputra, in the Southern world are Sun Moon Lamp Buddha, Well-known Light Buddha,

Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật,
Great Blazing Shoulders Buddha, Sumeru Lamp Buddha, Measureless Vigour Buddha,

Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,


Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
”All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.”

Xá Lợi Phất, Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng phật, Vô Lượng Tràng Phật,
“Sariputra, in the Western world are Measureless Life Buddha, Measureless Appearance Buddha, Measureless Curtain Buddha,

Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật,
Great Light Buddha, Great Brightness Buddha, Jeweled Appearance Buddha, Pure Light Buddha,

Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,

Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
‘All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.’”

Xá Lợi Phất, Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật,
“Sariputra, in the Northern world are Blazing Shoulders Buddha, Most Victorious Sound Buddha, Hard To Injure Buddha, Sun Birth Buddha, Net Brightness Buddha,

Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,

Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
‘All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.’”

Xá Lợi Phất, Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật,
“Sariputra, in the world Below are Lion Buddha, Well-known Buddha, Famous Light Buddha,

Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật,
Dharma Buddha, Dharma Curtain Buddha, Dharma Maintaining Buddha,

Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,

Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
‘All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.’”

Xá Lợi Phất, Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Túc Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật,
“Sariputra, in the world Above are Pure Sound Buddha, King of Past Lives Buddha, Superior Fragrance Buddha, Fragrant Light Buddha,

Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật,
Great Blazing Shoulders Buddha, Vari-coloured Jewels and Flower Adornment Body Buddha,

Ta La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật,
Sala Tree King Buddha, Jeweled Flower Virtue Buddha, Vision of All Meaning Buddha, Such as Mount Sumeru Buddha,
Như thị đẳng Hằng Hà sa số chư Phật.
All Buddhas such as these, numberless as Ganges sands.

Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn,
In his own country each brings forth the appearance of a vast and long tongue, everywhere covering the Three Thousand Great Thousand Worlds, and speaks the sincere and actual words,

Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
‘All you living beings should believe, praise, and hold in reverence the inconceivable merit and virtue of this Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective.’”
Xá lợi phất, ư nhữ ý vân hà, Hà cố danh vi nhất thiết chư Phật sở hộ niệm Kinh.
“Sariputra, what do you think? Why is it called ‘Sutra of the mindful one of whom all Buddhas are protective?’.”

Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, văn thị Kinh thọ trì giả,
“Sariputra, if a good man or good woman hears this Sutra and holds to it,


Cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử thiện nữ nhân, giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm,
And hears the names of all these Buddhas, this good man or woman will be the mindful one of whom all Buddhas are protective,

Giai đắc bất thối chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
And will irreversibly attain to Anuttarasamyaksambodhi.

Thị cố Xá Lợi Phất, nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.
Therefore, Sariputra, all of you should believe and accept my words and those which all Buddhas speak.”
Xá Lợi Phất, nhược hữu nhân, dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả.
“Sariputra, if there are people who have already made the vow, who now make the vow, or who are about to make the vow, ‘I desire to be born in Amitabha’s country,’

Thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thối chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
These people, whether born in the past, now being born, or to be born in the future,

Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh.
All will irreversibly attain to Anuttarasamyaksambodhi.

Thị cố Xá Lợi Phất, chư thiện nam tử thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
Therefore, Sariputra, all good men and good women, if they are among those who have faith, should make the vow, ‘I will be born in that country.’”
 Xá Lợi Phất, như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghì công đức,
“Sariputra, just as I now praise the inconceivable merit and virtue of all Buddhas,

Bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghì công đức, nhi tác thị ngôn,
All those Buddhas equally praise my inconceivable merit and virtue saying these words,

Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta Bà quốc độ, ngũ trược ác thế,
‘Sakyamuni Buddha can complete extremely rare and difficult deeds. In the Saha land, in the evil time of the five turbidities,
 Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung,
In the midst of the kalpa turbidity, the view turbidity, the affliction turbidity, the living beings turbidity, and the life turbidity,


Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Vi chư chúng sanh thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi Pháp.
He can attain Anuttarasamyaksambodhi and for the sake of living beings, speak this Dharma which in the whole world is hard to believe.’”

Xá Lợi Phất, đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự,
“Sariputra, you should know that I, in the evil time of the five turbidities, practice these difficult deeds,

Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi Pháp, thị vi thậm nan.
Attain Anuttarasamyaksambodhi, and for all the world speak this Dharma, difficult to believe, extremely difficult!”
Phật thuyết thử Kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư Tỳ Kheo,
After the Buddha spoke this Sutra, Sariputra and all the Bhiksus,

Nhất thiết thế gian thiên nhân a tu la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
All the gods, men, and asuras, and others from all the worlds, hearing what the Buddha had said, joyously welcomed, faithful accepted, bowed and withdrew.
Phật thuyết A Di Ðà Kinh
End of the Buddha speaks of Amitabha sutra.